Thực trạng trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp (TNXHDN) trong các doanh nghiệp
Nhận thức, hiểu biết về TNXHDN:
Nhóm nghiên cứu của CED đưa ra hai khái niệm về trách nhiệm xã hội[1] và yêu cầu doanh nghiệp chọn một khái niệm mà doanh nghiệp cho là đúng nhất, 61% doanh nghiệp chọn khái niệm đúng và đầy đủ hơn về TNXH, còn 39% chọn phương án 2 là chỉ tập trung vào các hoạt động hỗ trợ cộng đồng và xã hội. Hầu hết doanh nghiệp cho rằng, TNXH ở Việt Nam chủ yếu được thực hiện là do bắt buộc để đảm bảo tiêu chuẩn xuất khẩu và một số nữa là do tự nguyện của các doanh nghiệp, do cái tâm của người giám đốc hay người đứng đầu doanh nghiệp, chứ nhà nước chưa có những chính sách cụ thể hoặc rõ ràng để bắt buộc hay khuyến khích thực hiện.
Trách nhiệm với môi trường và sinh thái
Kết quả khảo sát cho thấy các doanh nghiệp đã bắt đầu quan tâm và áp dụng các biện pháp và chính sách cụ thể để tiết kiệm năng lượng và tiết kiệm tài nguyên vì đó cũng là một cách tích cực và hiệu quả nhằm giảm chi phí sản xuất, chi phí đầu vào của doanh nghiệp (47% doanh nghiệp được phỏng vấn có chính sách tiết kiệm điện; 46% doanh nghiệp có thu gom và tái sử dụng nguyên vật liệu trong quá trình sản xuất; 39% doanh nghiệp có các phương án tái sử dụng nguyên vật liệu; 43% doanh nghiệp có cung cấp thông tin cho khách hàng về cách sử dụng và cách xử lý rác thải sau khi sử dụng). Đặc biệt chỉ có 43% doanh nghiệp trả lời là hiện nay không còn sử dụng các thành phần hay nguyên vật liệu có hại với môi trường nữa, các doanh nghiệp còn lại thì vẫn còn sử dụng ở mức độ nào đó hoặc không đưa ra câu trả lời cho câu hỏi này.
Các doanh nghiệp cũng đã nhận thức được việc sử dụng công nghệ và sản phẩm thân thiện với môi trường nhưng thực tế áp dụng thì vẫn còn ít do thiếu vốn và kinh phí. Đa số các doanh nghiệp đã thay thế và lắp đặt các thiết bị ít tiêu hao điện hơn (57% doanh nghiệp đã áp dụng). Có 18% doanh nghiệp đã áp dụng các các thiết bị/công nghệ để sử dụng năng lượng tái tạo), kế hoạch tổng thể đầu tư vào công nghệ sạch hơn, xây dựng kế hoạch giảm phát thải, hay thay thế các linh kiện thiết bị giải pháp an toàn hơn cho môi trường (25% doanh nghiệp đã áp dụng hoặc đang xây dựng kế hoạch áp dụng). Đặc biệt mới chỉ có 29% doanh nghiệp đã thay thế và không sử dụng hóa chất độc hại, số còn lại thì vẫn sử dụng một số hoặc không đưa ra câu trả lời. Chỉ có 14% doanh nghiệp nghiên cứu và thay thế sử dụng các hóa chất trong danh mục cấm sử dụng trong quá trình sản xuất, các doanh nghiệp còn lại thì hoặc là vẫn sử dụng hoặc là không trả lời câu hỏi này.
Xây dựng và thực hiện QLRRTT trong doanh nghiệp
Nhìn chung, các doanh nghiệp chưa hiểu được mối liên hệ giữa trách nhiệm xã hội và công tác QLRRTT.
Chỉ có 36% các doanh nghiệp đã xây dựng và có kế hoạch phòng ngừa và ứng phó với thiên tai. Trong số các doanh nghiệp có phương án thì họ có phổ biến và có diễn tập kế hoạch, hướng dẫn kỹ năng cần thiết cho nhân viên trong tình huống khẩn cấp, khuyến khích nhân viên tham gia tình nguyện vào công tác phòng ngừa, ứng phó và hỗ trợ cộng đồng. Đặc biệt, trong số doanh nghiệp được khảo sát chỉ có 3 doanh nghiệp là có hộp phòng chống thiên tai cho nhân viên (là các doanh nghiệp đã tham gia tập huấn của dự án).
Những doanh nghiệp mặc dù đã được tập huấn mà vẫn chưa xây dựng kế hoạch thì chỉ có 2 doanh nghiệp trả lời là do không có sự quan tâm của lãnh đạo doanh nghiệp, 2 doanh nghiệp là chưa có nguồn lực, còn lại các doanh nghiệp khác hầu hết trả lời: chưa biết cách làm cụ thể mặc dù đã tham gia tập huấn, chưa nghĩ đến việc lập kế hoạch vì chưa có thời gian do bận việc kinh doanh, hoặc chưa có kinh nghiệm lập kế hoạch cụ thể và chưa huy động được sự tham gia của các đơn vị liên quan.
Trong tất cả các doanh nghiệp phỏng vấn, chỉ có 5 doanh nghiệp hiện nay đang trong quá trình xây dựng kế hoạch nâng cao nhận thức về QLRRTT cho cộng đồng, huấn luyện nhân viên, thông báo kịp thời về diễn biến thiên tai, phương án di chuyển nhân viên.
Đa số các doanh nghiệp phỏng vấn đều chưa có kế hoạch hỗ trợ nhân viên và gia đình họ phòng ngừa và ứng phó với thiên tai, chủ yếu lý do là chưa quan tâm, không có nguồn lực, chưa nghĩ đến hoặc quá bận với công việc kinh doanh, hơn nữa bản thân doanh nghiệp cũng chưa có kinh nghiệm, kiến thức hay nguồn lực để thực hiện việc này. Một số doanh nghiệp thì cho rằng, người lao động sống thường xuyên trong vùng bão lũ nên đã có rất nhiều kinh nghiệm do hàng năm phải chuẩn bị ứng phó nên không cần hướng dẫn thêm.
Tất cả các doanh nghiệp được phỏng vấn đều chưa bao giờ có chương trình hỗ trợ nâng cao nhận thức cho cộng đồng về quản lý rủi ro thiên tai. Nguyên nhân chủ yếu là không có nguồn lực, chưa có ai phát động phong trào, không biết cách làm và hỗ trợ thế nào, doanh nghiệp quy mô nhỏ nên không làm được. Một số ít doanh nghiệp thì nằm ở vị trí ít thiên tai nên không quan tâm. Nhiều doanh nghiệp cho rằng vì không ai đưa ra chương trình hay hướng dẫn, kêu gọi cụ thể nên doanh nghiệp không thể hỗ trợ. Hơn nữa, bản thân các doanh nghiệp hiện nay hiểu biết về quản lý rủi ro thiên tai còn hạn chế, thêm vào đó chưa có kinh nghiệm, chưa có đủ nguồn lực về tài chính và nhân sự để thực hiện.
Hầu hết các doanh nghiệp chưa tham gia các chương trình hỗ trợ cộng đồng địa phương ứng phó với thiên tai. Nguyên nhân chủ yếu các doanh nghiệp đưa ra là: ngoài chương trình học của VCCI thì không thấy có tổ chức nào thực hiện việc này để cùng tham gia góp sức. Môt số doanh nghiệp thì cho rằng từ khi thành lập công ty, trên địa bàn chưa có thiên tai xảy ra nên chưa quan tâm.
Cho đến nay đóng góp hỗ trợ cộng đồng chủ yếu vẫn là hưởng ứng các chương trình từ thiện, giúp đỡ người nghèo, gia đình chính sách, người có công, phụng dưỡng bà mẹ Việt Nam anh hùng… nơi doanh nghiệp hoạt động. Doanh nghiệp đã thực hiện ủng hộ quỹ phòng chống thiên tai tại địa phương hàng năm, tham gia dọn dẹp vệ sinh trong các tuần lễ phát động chiến dịch vì môi trường xanh – sạch – đẹp, tham gia các hoạt động của đoàn thanh niên, ủng hộ kinh phí, quần áo, thức ăn, ủng hộ bằng tiền, đóng góp các quỹ của MTTQ.
Cho đến nay thì cũng rất ít doanh nghiệp có các hợp tác với các doanh nghiệp khác để chia sẻ thông tin về quản lý rủi ro thiên tai hay hỗ trợ cộng đồng. Chỉ có một số các doanh nghiệp tham gia tích cực trong chương trình đào tạo tập huấn của VCCI, sau các khóa học, họ tiếp tục hợp tác, chia sẻ, trao đổi thông tin.
[1] Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là một cam kết kinh doanh nhằm cư xử đạo đức và đóng góp cho sự phát triển kinh tế cùng với việc nâng cao chất lượng cuộc sống của người lao động và gia đình của họ cũng như chất lượng cuộc sống của cộng đồng và xã hội nói chung.” (Định nghĩa của Uỷ ban kinh tế thế giới về phát triển bền vững ); (2) Trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp là cam kết đóng góp cho sự phát triển bền vững của xã hội thông qua các hoạt động cụ thể nhằm nâng cao chất lượng cuộc sống con người, an sinh cho cộng đồng”.